Tây Tiến
Đề 1: Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên
hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng
liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình
ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập
của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. ở trong thơ Quang Dũng cũng đã
dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là
bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống
trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc - Quân xanh màu lá dữ oai hùm - Mắt
trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hnội dáng kiều thơm - Rải rác biên
cương mồ viễn xứ - Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay
chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
THÂN BÀI
"Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những
đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng
cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương,
nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay
miền viễn xứ. Chính vì thế QDũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của
đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà
"đời vẫn cứ tươi" như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và QDũng cũng không chỉ
khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức
phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. QDũng đã đặc biệt
quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm
của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt
những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn
tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh
những người con anh hùng của đất nước, của dtộc. Đó là bức tượng đài
sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng
ta đã thấy trong các câu thơ
"Tây Tiến đoàn quân ..... khúc độc hành"
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những
đường nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn
thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:
" Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi "
hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại
thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh
như lá rừng. Cảm hứng chân thực của QDũng đã không né tránh việc mô tả
cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng
làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để
đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng
mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ
ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính
lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa
đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo.
Cái giỏi của QDũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tuỵ
nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm
đầu của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy mà âm
hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. 2
chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang,
hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn
là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu
không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương
phản mà QDũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" không chỉ
làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu
sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những
người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật hoá"
người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng
một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi
người anh hùng vệ quốc trong câu thơ
"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu - Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu"
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết
"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu - Thể diện sài long xâm lược quân"
Có thể nói QDũng đã sử dụng một môtíp mang đậm màu sắc phương Đông để
câu thơ mang âm vang của lsử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền
với sức mạnh truyền thống của dtộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ
oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi QDũng bổ
sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tquốc, hướng về Thủ
đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào
cũng hướng về HNội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
"Từ thuở mang gươm đi mở nước - Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long"
Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm
thương nỗi nhớ vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái
nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy
của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính
trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. QuDũng đã
tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên
cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đsống tâm hồn
phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo
tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ,
thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều
thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh
sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều
như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng
của thơ QDũng.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một
đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một
thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính
Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của
họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc
lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà
thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến
phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng
nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu
QDũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm
hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn
có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra
rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ
của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như
mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải
thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự
hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự
cô đơn côi cút. QDũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Trong Chinh phụ ngâm:
"Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi - Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi - Chinh phu tử sĩ mấy người - Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác
nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân,
của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm mồ rải rác kia
được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với
người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của
mình. Trong thơ QDũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như
vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ
"áo bào thay chiếu anh về đất"
Bao nhiêu thương yêu của QDũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội
của mình. Ai bảo QDũng không xót thương những người đồng đội của mình
ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó
khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết
vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa
người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong "Viếng bạn"
cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế
"ở đây không manh ván - Chôn anh bằng tấm chăn - Của đồng bào Cứa Ngàn - Tặng tôi ngày sơ tán"
Chỉ có điều câu thơ của QDũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên
thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên
trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có,
chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải
thấy QDũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc
áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất
nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử
hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ.
Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
KẾT BÀI
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng
mạn, QDũng đã dựng lên bức chân dung , một bức tượng đài người lính
cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức
mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm
cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng
đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là
bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của QDũng đối với những
người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã
vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những
người con anh hùng ấy
Đề 2: Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong
đoạn: " Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ..... Sông Mã gầm lên khúc độc
hành" (Quang Dũng, Tây Tiến)
- Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ
được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị
Tây Tiến một thời gian.
- Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính
Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau,
trong đó có cả học sinh, sinh viên.
- Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng
đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp
lãng mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng.
1. Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến :
Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút
pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng
rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích
thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
- Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự
xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này.
Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của
núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở
đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực
tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ :
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
... Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
- Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính
Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát những gương mặt
chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến
hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu
thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc.
Quang Dũng không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn
lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái
hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút
lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai
hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua
cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng
thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện quan ánh mắt
giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ ...
- cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua
cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những
tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ
Hà Nội dáng kiều thơm). Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã
tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng
những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà con thể hiện được cả thế
giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
2. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến :
- Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết,
sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng
mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những
chất liệu thẩm mỉ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
....Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
- Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không
hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi
khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng,
của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ
rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên
mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người
lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân,
qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang
trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội
của dòng sông Mã :
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả
thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên
nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng
cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng
- Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm
đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của
những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại.
III. Kết thúc vấn đề :
- Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của
ngòi bút Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những
người lính Tây Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người
tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi không trở lại.
- Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành công hình ảnh người
lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào
viện bảo tàng hình ảnh những người lính đó bức chân dung người lính Tây
Tiến rất độc đáo của mình.
Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền
tây Bắc Bộ và những người đồng đội trong đoạn "Sông Mã xa rồi Tây Tiến
ơi ! ........ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi." (Tây Tiến, Quang Dũng)
Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật trang sách cũ,
gặp Tây Tiến của Quang Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo những
vần thơ đượm màu kiêu bạc hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi...
Thơ hay có sức rung động mãnh liệt là vậy. Không cần tỉ mẩn
bóc từng câu từng chữ mà thấm vào lòng người sự rung cảm chân
thật đến run rẩy từng làn da thớ thịt. Tây Tiến đã thực sự
chinh phục người đọc bằng tâm trạng của người trai ra đi cứu
nước trong buổi đầu kháng chiến – với tâm tư in bóng trong dáng
hình sông núi:
”Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi...”
Cảnh ấy cũng là tình. Cũng là sương, là hoa, là mây, là mưa –
những chi tiết thường gặp trong thơ cổ – nhưng còn đượm thêm
không khí trầm hùng của thời đại được diễn tả bằng những từ
ngữ, thanh điệu khi đọc lên ta cảm thấy ngang tàng. Hình ảnh
của một đoàn quân mỏi đi trong cái khúc khuỷu, thăm thẳm, heo
hút, giữa cái bồng bềnh sương khói chơi vơi được tác giả phác
hoạ bằng những nét chấm phá tài tình. Con mắt thơ không dừng
lại ở trong không gian rừng núi mà còn mở ra một không gian –
tâm trạng của một hồn thơ chiến sĩ. Phảng phất một chút Lý
Bạch trước Hoàng Hà – ngút ngát chí tang bồng của người trai
thời loạn. Trong gian nan của người chiến sĩ Tây Tiến, ta vẫn
gặp chút hóm hỉnh ở hình ảnh súng ngửi trời. Chạm mặt với
thực tế khắc nghiệt – song chất hào hoa lãng tử không mất đi
mà lại càng được tô đậm thêm, chân thật sống động trong những
câu thơ đượm tình quê, tình đồng đội, tình quân dân. Một hiện
thực về người lính Tây Tiến – anh Bộ đội Cụ Hồ trong những năm
đầu chiến đấu gian khổ. Đó là cơn mưa gợi nỗi nhớ nhà sâu
thẳm, là sợi khói cơm thơm quyện chặt tình người, một bóng
hình đong đưa làm xao xuyến những trái tim trai trẻ...
Bài thơ có nói đến hy sinh, mất mát, gian khổ nhưng cảm xúc
hào hùng của lớp người “ra đi bảo tồn sông núi” đã lấn át
cái bi luỵ buồn thương. Đoàn binh Tây Tiến trong thơ Quang Dũng
như một sự kết tụ của tráng khí muôn đời, pha chút lãng mạn
kiểu Kinh Kha “một đi không trở lại”. Phải chăng với tinh thần
“coi cái chết nhẹ tựa lông hồng” mà toàn bài thơ mặc dù có
nói đến chết chóc nhưng giọng điệu rất bình thản: anh về đất?
Phải chăng khi xác định chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,
người chiến sĩ đã nhận ra mục đích của cuộc chiến đấu còn
lớn hơn gấp vạn lần những gian khổ , hy sinh?
Bài thơ không cường điệu hoá cảm xúc dẫu trong âm điệu gân
guốc, khoẻ khoắn của toàn bài có những từ ngữ mang hơi hướng
cổ điển như xiêm áo, dữ oai hùm, mồ viễn xứ, áo bào, khúc
độc hành và cách diễn đạt tưởng chừng lạ lẫm tràn ngập không
khí lãng mạn. Nếu chỉ chăm chăm đi tìm chất thép trong bài thơ
theo quan điểm xã hội học thiển cận thì chẳng khác nào cầm
dao đâm vào cái đẹp. Cái đẹp của bài thơ viết ra từ lửa máu
đã làm rung lên những cảm xúc đồng điệu của bao thế hệ.
Nhà thơ Trần Lê Vân, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ
chung với Quang Dũng viết về hòan cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây
Tiến như sau:
“Đòan quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập
trung đòan 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được
chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu
Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ), anh viết bài tho Tây Tiến.”
Muốn hiểu được bài thơ Tây Tiến, truớc hết cần phải có những hiểu biết
về đoàn quân Tây Tiến cùng với địa bàn hoạt động của nó. Khoảng cuối mùa
xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị
thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo
vệ biên giới Lào-Việt, đánh tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cho
cuộc kháng chiến ở những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của
đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và
Thuợng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về qua miền
tây Thanh Hóa. Những nơi này, lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, núi
cao, sông sâu, rừng dày, có nhiều thú dữ.
Những người lính Tây Tiến phần đong là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều
tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên. Sinh hoạt
của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc
men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn vì đánh trận, tuy vậy, họ vẫn sống rất
lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc
nghiệt của chiến tranh và hòan cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ
được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.
Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tinh thần
bi tráng. Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc
của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những
yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi
thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ.
Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận
với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ
mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người Tây Bắc càng tô đậm
thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện
chủ yếu ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẳn sàng xả thân, hy sinh tất
cả cho lý tưởng chung của cộng đồng, của tòan dân tộc.
Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không lụy. Cái bi được
thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất
lãng mạn hòa hợp với chất bi tráng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:
Sông Mã xa rồi Tay Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhó chơi vơi
Sài Khao sương lấp đòan quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nỗi, nhà thơ đã thốt lên
thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi
nhớ, hình tượng hóa nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực
thẳm, rừng dày,…liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ sau:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Khổ thơ này là một bằng chứng “thi trung hữu họa”. Chỉ bằng bốn câu thơ,
Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hòanh tráng diễn tả sự hiểm trở và dữ
dội, hoang vu và heo hút của núi rừng Tây Bắc, địa bàn họat dộng của
đòan quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đẩy giá trị tạo hình khúc
khủyu, thăm thẳm. cồn mây, súng ngửi trời đã diễn tả thật chính xác sự
hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đồi Tây Bắc. Hai chữ
“ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh,
vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây ,
mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi cao
tưởng chừng như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ
ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, dổ xuống gần như thẳng đứng,
nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Nếu như câu thứ ba là
nhìn lên và nhìn xuống thì câu thứ tư là nhìn ngang. Có thể hình dung
cảnh nhữngngười lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang
ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng mây núi thấy thấp thóang
những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.
Bốn câu thơ này phối hợp với nhau tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba
câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét
rất mềm mại. Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu
trong hội họa: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh
làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ.
Cái vẻ hoang dại dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng Tây Bắc
được nhà thơ tiếp tục khai thác. No’ không chỉ được mở ra theo chiều
không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối
đe dọa khủng khiếp đối với con người:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Vậy là, cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ và hiểm trở qua ngòi bút Quang
Dũng, hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương
núi, thác gầm, cọp dữ,….Những tên đất lạ Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông,
Mường Hịch, những hình ảnh giàu trí tạo hình, những câu thơ nhiều vần
trắc đọc lên nghe vất vả nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều
vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện
hình lên thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng Tây
Bắc.
Đọan thơ được kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội
suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản
làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói cơm nghi
ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên khuôn mặt
những người lính , khiến họ tươi tỉnh hẳn lai. Hai câu thơ này tạo nên
một cảm giác êm dịu, ấm áp, chuan bị tư thế cho người đọc bước sang đọan
thơ thứ hai.
a/ vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên
hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng
liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình
ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập
của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. ở trong thơ Quang Dũng cũng đã
dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là
bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống
trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc - Quân xanh màu lá dữ oai hùm - Mắt
trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hnội dáng kiều thơm - Rải rác biên
cương mồ viễn xứ - Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay
chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
"Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những
đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng
cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương,
nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay
miền viễn xứ. Chính vì thế QDũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của
đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà
"đời vẫn cứ tươi" như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và QDũng cũng không chỉ
khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức
phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. QDũng đã đặc biệt
quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm
của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt
những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn
tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh
những người con anh hùng của đất nước, của dtộc. Đó là bức tượng đài
sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng
ta đã thấy trong các câu thơ
"Tây Tiến đoàn quân ..... khúc độc hành"
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những
đường nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn
thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:
" Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi "
hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại
thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh
như lá rừng. Cảm hứng chân thực của QDũng đã không né tránh việc mô tả
cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng
làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để
đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng
mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ
ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính
lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa
đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo.
Cái giỏi của QDũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tuỵ
nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm
đầu của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy mà âm
hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. 2
chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang,
hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn
là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu
không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương
phản mà QDũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" không chỉ
làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu
sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những
người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật hoá"
người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng
một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi
người anh hùng vệ quốc trong câu thơ
"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu - Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu"
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết
"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu - Thể diện sài long xâm lược quân"
Có thể nói QDũng đã sử dụng một môtíp mang đậm màu sắc phương Đông để
câu thơ mang âm vang của lsử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền
với sức mạnh truyền thống của dtộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ
oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi QDũng bổ
sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tquốc, hướng về Thủ
đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào
cũng hướng về HNội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
"Từ thuở mang gươm đi mở nước - Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long"
Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm
thương nỗi nhớ vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái
nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy
của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính
trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. QuDũng đã
tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên
cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đsống tâm hồn
phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo
tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ,
thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều
thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh
sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều
như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng
của thơ QDũng.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một
đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một
thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính
Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của
họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc
lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà
thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến
phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng
nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu
QDũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm
hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn
có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra
rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ
của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như
mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải
thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự
hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự
cô đơn côi cút. QDũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Trong Chinh phụ ngâm:
"Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi - Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi - Chinh phu tử sĩ mấy người - Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác
nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân,
của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm mồ rải rác kia
được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với
người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của
mình. Trong thơ QDũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như
vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ
"áo bào thay chiếu anh về đất"
Bao nhiêu thương yêu của QDũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội
của mình. Ai bảo QDũng không xót thương những người đồng đội của mình
ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó
khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết
vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa
người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong "Viếng bạn"
cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế
"ở đây không manh ván - Chôn anh bằng tấm chăn - Của đồng bào Cứa Ngàn - Tặng tôi ngày sơ tán"
Chỉ có điều câu thơ của QDũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên
thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên
trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có,
chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải
thấy QDũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc
áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất
nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử
hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ.
Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
KẾT BÀI
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng
mạn, QDũng đã dựng lên bức chân dung , một bức tượng đài người lính
cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức
mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm
cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng
đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là
bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của QDũng đối với những
người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã
vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những
người con anh hùng ấy.
theo Truongton.net